KHẢO SÁT KỸ NĂNG TỰ BẢO VỆ CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
DOI:
https://doi.org/10.51453/2354-1431/2022/718Từ khóa:
Tá»± bảo vệ, hình thà nh, kỹ năng, trẻ mẫu giáo, trÆ°á»ng mầm nonTóm tắt
Kỹ năng tự bảo vệ là một thành tố quan trọng trong hệ thống các kỹ năng sống cần hình thành và phát triển cho trẻ 5-6 tuổi, đặc biệt là trẻ em ở khu vực miền núi với phần lớn trẻ là người dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa - những vùng có địa hình đồi núi, khí hậu khắc nghiệt. Trẻ em đi học gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ cao mất an toàn như: nhà ở, trường học thường ở sườn núi, dốc cao; quãng đường từ nhà đến trường xa, trẻ tự đi bộ mà không có người lớn đưa đón; mưa lũ, sấm sét, sạt lở đất đá; bị bắt cóc; bị xâm hại; bị lạc đường, tai nạn giao thông, đuối nước; bị bỏng; vật sắc nhọn; bị côn trùng đốt và động vật hoang dã tấn công; bị đói, khát nước; bị ốm sốt; ở nhà một mình khi bố mẹ đi làm thuê dài ngày; ... Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích phát hiện thực trạng mức độ kỹ năng tự bảo vệ của trẻ, tìm hiểu các rào cản đối với hoạt động giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ ở khu vực này. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phương điều tra, phương pháp quan sát theo quá trình, bài tập tình huống, phương pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê toán học (phần mềm SPSS 20.0),… Kết quả về cảm giác thoải mái và sự tham gia tích cực của trẻ trong hoạt động ở các trường đạt từ mức trung bình từ 2.62 đến 2.64; mức độ kỹ năng tự bảo vệ của trẻ ở các nhóm kỹ năng được khảo sát phân bố chủ yếu ở mức 2 và 3, từ 1.18 đến 2.52 (trong 4 mức đánh giá).
Tải xuống
Tài liệu tham khảo
[1] Deblinger E, Stauffer L, Steer R. 2001. Comparative efficacies of supportive and cognitive behavioral group therapies for children that were sexually abused and their unoffending mothers, Child Maltreatment 6(4): 332–343.
[2] Huong,N.T.X.. Situation and measures to educate self-defense skills for preschool children in some preschools in Dong Hoi City, Quang Binh Province. Education Magazine, Issue 482 (Term 2 - 7/2020).
[3] Maureen C. Kenny (2008). Child Sexual Abuse: From Prevention to Self-Protection. Child Abuse Review Vol. 17: 36–54 (2008) Publish online in Wiley InterScience (www.interscience.wiley.com) DOI: 10.1002/car.1012.
[4] Ministry of Education and Training (2017). Early childhood education program. Vietnam Education Publishing House.
[5] Ministry of Education and Training (2020). Practice observing children according to the process of preschool institutions. The document is published by VVOB and the Ministry of Education and Training.
[6] Runyon MK, Basilio I, Van Hasselt VB, Hersen M, (1998). Child witnesses to interparental violence: Child and family treatment. In Handbook of psychological treatment protocols for children and adolescents. The LEA series in personality and clinical psychology, Van Hasselt VB, Hersen M (eds). Lawrence Erlbaum Associates: Mahwah, NJ; 203–278.
[7] Wurtele S, Owens J. (1997). Teaching personal safety skills to young children: An investigation of age and gender across five studies. Child Abuse & Neglect 21: 805–814.
[8]https://www.unicef.org/vietnam/media/1016/file/B%C3%A1o%20c%C3%A1o%20t%C3%B3m%20t%E1%BA%AFt.pdf. Summary Report on Mental health and psychosocial well-being of children and young people in some provinces and cities in Vietnam, 2015.
Tải xuống
Đã Xuất bản
Cách trích dẫn
Số
Chuyên mục
Giấy phép
Tác phẩm này được cấp phép theo Giấy phép Quốc tế Creative Commons Attribution-ShareAlike 4.0 .
Bài báo được xuất bản ở Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào được cấp phép theo giấy phép Ghi công - Chia sẻ tương tự 4.0 Quốc tế (CC BY-SA). Theo đó, các tác giả khác có thể sao chép, chuyển đổi hay phân phối lại các bài báo này với mục đích hợp pháp trên mọi phương tiện, với điều kiện họ trích dẫn tác giả, Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào và đường link đến bản quyền; nêu rõ các thay đổi đã thực hiện và các nghiên cứu đăng lại được tiến hành theo cùng một bản quyền.
Bản quyền bài báo thuộc về các tác giả, không hạn chế số lượng. Tạp chí Khoa học Tân Trào được cấp giấy phép không độc quyền để xuất bản bài báo với tư cách nhà xuất bản nguồn, kèm theo quyền thương mại để in các bài báo cung cấp cho các thư viện và cá nhân.
Mặc dù các điều khoản của giấy phép CC BY-SA không dành cho các tác giả (với tư cách là người giữ bản quyền của bài báo, họ không bị hạn chế về quyền hạn), khi gửi bài tới Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào, tác giả cần đáp ứng quyền của độc giả, và cần cấp quyền cho bên thứ 3 sử dụng bài báo của họ trong phạm vi của giấy phép.